Chủ Nhật, 26 tháng 10, 2014

Cách Chào Hỏi Tiếng Đức Căn Bản Cho Người Mới Học

Mẫu câu chào hỏi tiếng Đức căn bản
Vokabel und Sätze (từ vựng và câu mẫu)
1. Trong trường hợp trang trọng:
Wie ist Ihr Name / Wie heißen Sie? = tên của Ngài là gì?
Ich heiße… / Mein Name ist … = tên tôi là ….
2. Trong trường hợp xã giao với bạn bè:
Wie heißt du ? = tên bạn là gì?
Mein Name ist .... / ich heiße... = tôi tên là ...

VD: Sich Vorstellen (Giới thiệu bản thân)

VD 1:
A: Hallo, ich bin Eva. Und wie heißt du?
(Xin chào, tôi tên Eva. Bạn tên gì?)
B: Tobias. Und du?
(Tobias. Còn bạn?)
C: Ich heiße Daniel
(Tôi tên Daniel)

VD 2:
A: Guten Tag. Ich bin Karin Beckmann von „Globe Tour“. Und wie heißen Sie?
(Chúc 1 ngày tốt lành. Tôi là Karin Beckmann từ công ty "Globe Tour". Tên ngài là gì?
B: Ich heiße Veronika Winter
(Tôi tên Veronika Winter)
A: Und wie ist Ihr Name?
(Và tên ngài là gì?)
C: Mein Name ist Max Weininger
(Tên tôi là Max Weininger)
D: Werner Raab
(Werner Raab)



Cách Chào Hỏi Căn Bản Tiếng Đức

Begrüßungen (Chào Hỏi Cơ Bản)

Dialog 1: Xã giao thông thường
A: Guten Morgen
(chào buổi sáng)
B: Guten Tag
(xin chào – chúc 1 ngày tốt lành)

Dialog 2: chào hỏi trong trường hợp trang trọng
A: Guten Tag, Frau Bauer
(xin chào, bà Bauer)
B: Guten Tag, Frau Yoshimoto
(xin chào, bà Yoshimoto)
A: Wie geht es Ihnen?
(Bà có khỏe không?)
B: Danke, gut. Und Ihnen?
(cảm ơn. Tôi khỏe. Còn bà?)
A: Auch gut, danke
(tôi cũng khỏe. Cảm ơn bà)

Lưu ý:
Xã giao trong trường hợp trang trọng phải có danh xưng cho người nói
Frau = dành cho phụ nữ
Herr = dành cho đàn ông
Sử dụng per “Sie” (Ngài) cho đối tác của mình
Sie - Ihnen

Dialog 3: chào hỏi với bạn bè
A: Hallo, Nikos!
(xin chào, Nikos)
B: Hallo, Lisa! Hallo Peter!
(xin chào, Lisa! Xin chào, Peter!)
A: Wie geht`s?
(khỏe không?)
B: Danke, gut.
(khỏe, cảm ơn)

Lưu ý:
Trong trường hợp xã giao với bạn bè, không cần sử sụng
Herr, hoặc Frau
sử dụng per “Du”: Du – dich - dir
Clicken Sie hier, bitte (click để nghe bài đọc)

10 Loại Từ Trong Tiếng Đức

Có tổng cộng 10 loại từ ngữ trong tiếng Đức


Fachbegriff
(Thuật ngữ quốc tế,
gốc từ tiếng La tinh)
deutsche Bedeutung
(Thuật ngữ tiếng Đức)
Beispiele
(Ví dụ)
1
Substantiv / Nomen
(danh từ)
Namenwort / Hauptwort (deklinierbar = có sự biến dạng)
Haus, Ball, Kugel, Kindergarten, Gefängnis,
Häuse, Bälle…
2
Adjektiv
(tính từ)
Eigenschaftswort / Wie-Wort (deklinierbar)
arm, schön, hässlich, bunt
3
Artikel
(quán từ)
Geschlechtswort
Quán từ xác định: der, die, das
Quán từ không xác định: ein, eine, ein
4
Verb
(động từ)
Zeitwort / Tunwort (wird konjugiert)
gehen, laufen, schenken, unterstützen,
müssen, können, haben, sein…
5
Adverb
(tính động từ, trạng từ)
Umstandswort
 (kann nicht dekliniert werden = Không bị biến dạng)
gern, sehr, oft
heute, bald, gestern
rechts, dort, vorne, hinten

6
Präposition
(giới từ)
Verhältniswort
auf, am, in, unter, zum, mit, bei
7
Konjunktion
(liên từ)
Bindewort (verbindet Satzteile miteinander; leitet Nebensätze ein)
und, oder, weil, da, als, dass, damit, wenn, nachdem,    obwohl, obgleich
8
Numerale
(số)
Zahlwort
drei, vier, fünf, sechs, etc
9
Pronomen
(đại từ)
Fürwort, einsetzbar für ein Nomen
(Có thể thay thế danh từ)
ich, du, er, sie, es…
mein, dein, diese, jene…
10
Interjektion
(Thán từ)

Ausrufewort
Aua, He, Oh…
Ach! Hallo! Hoppla!


Cách Phát Âm-Đọc Hiểu-Ngữ Pháp-Từ Vựng Tiếng Đức

Khi bạn sử dụng một ngoại ngữ thành thạo thì nó sẽ giống như một cơ thể sống với ngữ pháp là khung xương, từ vựng là da thịt và tiếng nói hay phát âm là linh hồn.

1. Học phát âm:
Phương pháp học ngoại ngữ hiện đại không bắt đầu bằng giải thích ngữ pháp mà bằng luyện phát âm. Có ý nghĩa của nó, vì sao? Nếu bạn bắt đầu bằng học ngữ pháp hay từ vựng thì bạn vẫn phải đọc cái từ đó lên, và nếu bạn phát âm không chuẩn thì về sau rất khó sửa (kinh nghiệm học tiếng Anh 10 năm đau thương của tôi!). Thế nên khi đi học tiếng Đức ở khoa Đức trường ĐH Hà Nội thì 2 tuần đầu tiên bạn chủ yếu chỉ học phát âm mà thôi. Học phát âm lại phải rất intensiv mới hiệu quả, vì chúng ta là người trưởng thành rồi, hai mươi mấy năm lấy hơi uốn lưỡi như vậy rồi, bây giờ chuyển sang một ngôn ngữ mới giống như phá một pháo đài kiên cố, mỗi ngày bạn bắn 2 viên đạn chẳng ăn thua, mà phải cho nó một quả bom mới được! 2 tuần học phát âm tiếng Đức sẽ khiến bạn mệt đến mức đau hàm, mỏi cổ, tức ngực ấy, nhưng rồi sau đó bạn có thể tận hưởng thành quả những nỗ lực của mình!

Nói thế không có nghĩa là học xong khóa phát âm này là bạn đã nói chuẩn hết rồi. Khi tiếp xúc với người Đức và đặc biệt là từ khi sang Đức, bạn nên „dỏng tai lên“ mà nghe cách phát âm của họ. Tôi có một thú vui là nhại tiếng Mailbox điện thoại, nghe loa thông báo trên tàu và „hóng hớt“ những hành khách nói to xung quanh. Đấy có thể là tiếng địa phương, cũng có thể là cách phát âm đúng mà bạn luyện chưa tới. Hãy trao đổi với các thầy cô dạy tiếng Đức và đi học một khóa Aussprachetraining ở Sprachzentrum của Uni nữa nhé!

Hồi học Kolleg ở Darmstadt tôi có một thầy giáo tiếng Đức tuyệt vời. Khi gọi đọc bài ông luôn yêu cầu chúng tôi đọc phải tròn vành rõ chữ, đúng trọng âm, phải ngắt nghỉ, lên giọng xuống giọng. Ông thường nói với sinh viên nước ngoài rằng: „Nếu các bạn ngữ pháp chuẩn, dùng từ hay, mà nói không đúng ngữ điệu thì người ta cũng không nhận ra là các bạn đang nói tiếng Đức đâu!“

2. Đọc hiểu
Học ngữ pháp cho chắc không phải chỉ để người bản xứ tôn trọng mình, mà nó còn giúp bạn hiểu được các bài Text ở Uni nữa. Ví dụ một câu trông có vẻ rất „kinh khủng“:
„Jeder Unterricht steht vor der Aufgabe, die Voraussetzungshaltigkeit und Komplexität eines Gegenstandes auf das hin zu konzentrieren, was seine Zugänglichkeit sichert.“

Sau khi phân tích ngữ pháp câu này, bạn sẽ thấy nó dễ hiểu hơn nhiều:
1. Chủ ngữ của câu này là gì? -> Jeder Unterricht
2. Vị ngữ? -> steht vor der Aufgabe
Như vậy là câu này bàn về „Unterricht“, cụ thể hơn là bàn về 1 cái Aufgabe của Unterricht. Aufgabe đó là gì, thì được giải thích trong mệnh đề „zu“ tiếp theo. Động từ của mệnh đề „zu“ này là konzentrieren. Konzentrieren theo nghĩa „tập trung vào vấn đề gì“ thì cách dùng là Jemand konzentriert sich auf etwas (Akk.). Thế nhưng ở đây bạn không bắt gặp cấu trúc này mà lại là cấu trúc etwas auf etwas (Akk.) konzentrieren, có phải không?

„die Voraussetzungshaltigkeit und Komplexität eines Gegenstandes auf das hin zu konzentrieren“

Sau khi tra Langenscheidt thì bạn biết nghĩa của từ „konzentrieren“ ở đây không phải „tập trung“ mà là cô đọng, dồn nén cái gì thành cái gì, kiểu như trong điều chế hóa học ấy. (Từ „hin“ ở đây là Adverb, chỉ có ý nghĩa nhấn mạnh sự biến đổi, thay đổi phương hướng.) Bây giờ bạn biết được là „Nhiệm vụ của Unterricht là cô đọng cái Voraussetzungshaltigkeit và Komplexität của một đối tượng vào thành một cái gì đó...?“ „Cái gì đó“ ở đây là „das“ và được giải thích trong mệnh đề quan hệ tiếp theo: das = was seine Zugänglichkeit sichert. „Seine“ ở đây là của ai? Seine thì chỉ đi với từ nào là „der“ hoặc „das“ thôi, bạn thấy cái từ der hoặc das gần nó nhất là Gegenstand. Tức là cái das ở đây = was die Zugänglichkeit des Gegenstandes sichert.

Qua phân tích này hi vọng bạn thấy được nhận thức là một quá trình nhiều bước và ngữ pháp là một người dẫn đường quan trọng. Cái câu rất phức tạp bên trên bây giờ bạn đã có thể bẻ nó thành 3 câu nhỏ hơn, dễ hiểu hơn:

„Jeder Unterricht hat eine Aufgabe: Der Unterricht konzentriert die Voraussetzungshaltigkeit und Komplexität eines Gegenstandes auf einen Kern. Dieser Kern sichert die Zugänglichkeit zum Gegenstand.“
Tất nhiên để diễn giải và đánh giá được nhận định này thì bạn còn cần kiến thức chuyên ngành nữa, nhưng ít nhất thì đến đây rào cản ngôn ngữ (Sprachbarriere) của bạn đã được dỡ bỏ. Tôi tin rằng rất nhiều sinh viên Việt Nam bỏ học giữa chừng đáng lẽ đã có thể cứu được sự nghiệp học hành của họ, nếu như họ nắm vững phương pháp này.

3. Học ngữ pháp:
Nhiều người không coi trọng việc học ngữ pháp, cho rằng nói sao để hiểu nhau là được rồi. Đúng, nếu bạn làm những công việc đơn giản. Còn khi bạn vào trường Đại học hoặc đi làm thực tập ở Đức mà bạn nói ngữ pháp không chuẩn thì bạn sẽ gặp rất nhiều bất lợi. Đây không phải chỉ là trải nghiệm của cá nhân tôi mà hầu hết bạn bè đi học, đi làm ở Đức đều đã chia sẻ lại với tôi như vậy. Bạn có thể tức giận mà cho rằng: „Người Đức phân biệt chủng tộc!“ nhưng thật ra ngay ở Việt Nam mình cũng thế thôi, khi vào những môi trường nghiêm túc, yêu cầu cao thì bạn cũng phải nói năng tương ứng, chứ không thể nói chuyện như lúc tán gẫu với bạn bè được, đúng không? Thư từ giao dịch và các bài viết nộp ở Uni thì chuẩn ngữ pháp là điều bắt buộc. Thư xin việc mà bạn lại viết sai ngữ pháp thì thôi rồi... Ngay cả sinh viên Đức trước khi nộp bài cũng phải đi nhờ người soát lỗi ngữ pháp đó bạn ạ. Nếu bạn muốn biết ông giáo sư của mình ngày thường hiền lành tốt bụng thế có thể trở thành „thú dữ“ ra sao thì bạn cứ thử nộp một cái Hausarbeit mà chưa được Korrekturlesen xem!:)

Khi tiếng Đức của bạn chưa vững, bạn cảm giác mình chưa kiểm soát được hết các yếu tố ngữ pháp trong câu nói của mình thì đừng nói nhanh, nói chậm và để ý đến ngữ pháp quan trọng hơn! Ông thầy tiếng Đức của tôi nói rằng: Tai người Đức nhạy cảm nhất với vị trí động từ, sau đó đến giới từ rồi quán từ và đuôi tính từ, chẳng hạn nếu bạn nói „Ich hab eine sehr gute Buch gefunden!“ thì người nghe vẫn cảm giác „đúng“ hơn là khi bạn nói: „Ich habe gefunden ein sehr gutes Buch!“... Cũng đừng nản khi mình chưa nói đúng được ngay vì bạn cũng thấy đấy, vị trí động từ trong tiếng Đức đôi khi ngược hẳn với tiếng Việt và tiếng Anh – là những ngôn ngữ chúng ta đã biết. Khi sang Đức bạn sẽ thấy không chỉ mình bạn phải chiến đấu với ngữ pháp tiếng Đức đâu, mà cả các bạn đến từ Anh, Mỹ hay các nước khác nữa! Chỉ cần bạn thể hiện ra là mình đang rất nỗ lực học tiếng Đức thì bạn sẽ nhận được sự tôn trọng và giúp đỡ từ người Đức. Cách tốt nhất là cứ mạnh dạn nói và nhờ người đối diện sửa cho mình khi họ thấy mình mắc lỗi nào đó. Trong vòng 3 năm từ ngày đầu tiên sang Đức tôi luôn nói với những người bạn Đức của mình là: „Ich lerne Deutsch, bitte korrigiere meine Fehler für mich!“ Khi đi dạo, đi tàu, đi chợ, đi chơi... bạn hoàn toàn có thể bắt chuyện với những người Đức xung quanh, đầu tiên là bằng một nụ cười. Không phải ai cũng sẽ đáp lại bạn đâu nhưng nếu thấy người đối diện cũng mỉm cười đáp lại thì bạn nói một câu gì đó về thời tiết, chẳng hạn: „Heute ist das Wetter schön/ schlecht!“. Nếu thấy họ lại đáp lại tiếp kiểu „Ja“ hay là „Nein“ thì bạn có thể tiếp tục bằng cách kể một chút về bản thân: „Ich bin neu/ seit ein paar Tagen in Deutschland. Ich lerne noch Deutsch.“ Và lại cười thật tươi tiếp! Đến đây thì trong đa số các trường hợp người đối diện sẽ hỏi han bạn thêm một chút và thế là bạn có cơ hội để luyện tiếng Đức rồi!

4. Học từ vựng:
Khung xương chắc, tiếng nói hay mà mỏng da thiếu thịt thì cơ thể cũng yếu ớt, thiếu sức sống, làm nhiều việc bị hạn chế, đúng không? Trong ví dụ ở phần trước bạn cũng đã thấy: Sau khi phân tích ngữ pháp bạn còn phải tra nhiều từ nữa mới có thể hiểu được nội dung câu ấy. Như vậy: Vốn từ vựng của bạn chính là „vốn“ để bạn bắt đầu sự nghiệp học tập trên nước Đức đó. Theo thời gian càng tích lũy nhiều thì bạn càng „giàu“, càng có „vốn“ lớn hơn để theo đuổi những dự án lớn hơn! Học từ vựng không khó, chỉ cần chăm chỉ chịu khó mà thôi!:) Cách học từ vựng của tôi: Tôi viết mỗi từ mới 1-2 dòng, trong lúc viết thì tay viết, mắt nhìn, miệng nhẩm, tai nghe, đến hết dòng thì tôi đặt 1 câu cho từ đó. Lúc đặt câu là lúc bạn tìm một hình ảnh sinh động gắn với từ đó để „găm“ nó vào não.

Học từ nào thì học đến nơi đến chốn, với danh từ thì phải học der/die/das và dạng số nhiều, với động từ phải học cách chia bất quy tắc, tách hay không tách, với nghĩa này thì đi kèm giới từ nào, bổ ngữ là cách 3 hay cách 4, với tính từ thì khi biến đổi sang dạng so sánh có gì đặc biệt không, dùng kèm với giới từ nào, động từ nào. Học kiểu này khá kỳ công, chỉ học được khoảng 10 từ một lúc là thấy „oải“ lắm rồi, ngồi cả buổi chiều có khi chỉ học được khoảng 20 từ. Nhưng từ nào đã học thì không bao giờ quên cả, cũng chẳng bao giờ nhầm lẫn linh tinh. Ngày được ít ngày được nhiều, nếu bạn cứ kiên trì tích lũy như vậy thì chỉ sau một thời gian bạn sẽ thấy vốn từ vựng bị động (passiver Wortschatz) của bạn tăng lên đáng kể. Và vốn từ vựng chủ động (aktiver Wortschatz) cũng sẽ tăng lên nếu bạn tích cực áp dụng những từ mới học được vào nói, viết hàng ngày.

Học từ vựng lại có yếu tố vui vẻ hoặc thực tiễn thì càng hiệu quả. Hôm trước tôi đọc „Meisterdetektiv Conan“ học được thêm từ mới Alibi = bằng chứng ngoại phạm (das Alibi, die Alibi, ein Alibi für etwas). Hồi trước tôi rất hay nhầm stationäre Behandlung và ambulante Behandlung, không rõ cái nào là điều trị nội trú, cái nào là điều trị ngoại trú. Sau mấy ngày nằm viện thì không còn nhầm nữa!

Nếu bạn đang quan tâm đến một vấn đề nào đó, ví dụ giáo dục giới tính chẳng hạn, sao không ra thư viện thành phố mượn 1 cuốn sách về chủ đề đó, học được vô số từ mới lại còn thu được nhiều kiến thức nữa chứ! Các bạn đang ở Việt Nam có thể tha thẩn vào các trang của các trường, đọc những đoạn giới thiệu về các ngành học, về truyền thống lịch sử của trường v.v...

Khi các bạn mới học tiếng Đức, trí nhớ còn tươi mới như chiếc đĩa trắng, hãy tranh thủ học thuộc lòng những hội thoại ngắn hay những đoạn văn hay. Bộ nhớ của bạn sẽ gọi ra một từ dễ dàng hơn, nếu nó đã được nạp vào trong một ngữ cảnh cụ thể và sống động như vậy! Có nhiều nghiên cứu nói rằng những thông tin bạn tiếp nhận trong vòng 30 phút trước khi đi ngủ sẽ đi vào vô thức sớm nhất, nên cũng có lời khuyên bạn dành khoảng thời gian này để học từ mới hoặc nghe 1 bài nghe.

Tôi khuyên các bạn nên sớm tập dùng từ điển Đức – Đức (của Langenscheidt hoặc Duden), ban đầu sẽ cần thời gian để quen, nhưng dần dần các bạn sẽ thấy rất hiệu quả. Từ điển Đức – Đức giải nghĩa một từ bằng những từ tiếng Đức đơn giản hơn kết hợp với câu ví dụ và hình ảnh minh họa. Học như thế bạn không chỉ được thường xuyên củng cố những từ đã biết (vốn từ căn bản) mà còn được luyện tập cách suy nghĩ bằng tiếng Đức luôn, không phải mất thời gian dịch nhẩm trong đầu nữa. Nên nhớ: Khi sang Đức rồi thì các bạn phải học bằng tiếng Đức với người Đức mà! Nếu bạn muốn hỏi gì thì bạn phải hỏi bằng tiếng Đức, khi trả lời bạn các thầy cô cũng lại trả lời bằng tiếng Đức mà! Tức là bạn phải học làm sao để tiếng Đức thật sự trở thành công cụ làm việc cho bạn. Thế nên muộn nhất là sau trình độ B1 thì các bạn phải sử dụng chủ yếu là từ điển Đức – Đức, dùng Đức – Việt chỉ khi có từ nào không thể nào hiểu nổi thôi.

* Một ý nhỏ cuối cùng muốn chia sẻ: tôi nghĩ rằng bạn sẽ rất khó để giỏi một ngoại ngữ nếu bạn cứ giữ mãi trong đầu ý nghĩ là bạn ghét nó! Nếu bạn chưa yêu nó ngay, rất bình thường, có thể càng học càng tìm hiểu bạn sẽ càng yêu. Có thể bạn yêu nó vì bạn yêu những trải nghiệm, những cơ hội, những mối quan hệ mà ngoại ngữ ấy mang lại cho bạn. Có một câu nói của Lênin mà tôi rất thích: „Biết thêm một ngoại ngữ là sống thêm một cuộc đời.“

Nguồn: Facebook

Cách Đọc Phát Âm Trong Tiếng Đức Căn Bản

[ä] đọc là e ( ví dụ: Länder đọc là Len-đờ )
[ö] = uê (ví dụ: Schön đọc là S-uyênnn
[ü] = uy (ví dụ: Üben đọc là Uy-bền)
ss;s = z (ví dụ: Saison đọc là Zai-zòn)
z = ts (ví dụ: Zeit đọc là Tsai)
sch = S ( đọc "sờ" mạnh ra)
e = ê
ei = ai (ví dụ: Wein đọc là v-ain)
ie = i
eu = oi (ví dụ: Euro đọc là Oi-rô)
äu = oi (ví dụ: Jubiläum đọc là Dzu-bi-loi)
au = ao (ví dụ: Laut đọc là Lao-th)
tion = xion (ví dụ: Lexion đọc là Lék-xi-on)
v = phao (ví dụ: Verheiratet đọc là phè-hei-ra-tét)
w = vê (ví dụ: Wasser đọc là Vá-sơ)
t = th (ví dụ: Titel đọc là Tí-tềl)
ng = ngờ (ví dụ: langsam đọc là lănggg-zàm)
ch = kh (giữ lưỡi, "khì" ra 1 cái )
j đọc là [dz] (ví dụ: Job đọc là Dzóp)

Bảng Chữ Cái Tiếng Đức Cho Người Mới Học

A a
(a)
B b
(bee)
C c
(zee)
D d
(dee)
E e
(e)
F f
(eff)
G g
(gee)
H h
(ha)
I i
(i)
J j
(jott)
K k
(ka)
L l
(ell)
M m
(em)
N n
(en)
O o
(o)
P p
(pee)
Q q
(ku)
R r
(er)
S s
(es)
T t
(tee)
U u
(u)
V v
(fau)
W w
(wee)
X x
(iks)
Y y
(üpsilon)
Z z
(zett)

Bảng chữ cái

Một vài kinh nghiệm đọc của tôi
Rất may là chúng ta có thể đánh vần và đọc được chữ Đức. Khác hẳn với tiếng Anh hay là tiếng Pháp (viết một đằng đọc một nẻo) người Đức có thể đọc được chữ Việt và ngược lại người Việt có thể đọc được chữ Đức. Dĩ nhiên là không hoàn toàn giống nhau, nhưng cũng lơ lớ. Đây là thuận lợi lớn nhất cho chúng ta.
Qua bảng trên thì chỉ có một vài chữ đọc khác đi.
          Chữ „g (G)“ trong tiếng Đức đọc là „kê“ hơi kéo dài vần „ê“ ra.
                    Chữ „t (T)“ đọc là „thê“ hơi kéo dài vần „ê“ ra.
                    Chữ „h (H)“ đọc là „ ha“…
Bảng chữ cái trong tiếng Đức bao gồm  26 chữ cái. Cả 26 chữ này đều có thể viết hoa (viết to) hoặc viết thường (viết nhỏ).
- Những chữ mầu đỏ là nguyên âm (= Vokale). Bao gồm 5 chữ: a, e, i, o, u. Nguyên âm thì có thể đọc như trong tiếng Việt (Trừ chữ e phải đọc là ê, chữ o  phải đọc là ô), không cần sự trợ giúp của các âm khác. Theo tôi thì chữ y (i dài) cũng là một nguyên âm.
- Những chữ còn lại đều là phụ âm (= Konsonanten), phụ âm thì cần sự trợ giúp của các âm khác khi đọc.
Chữ B khi đọc thì cần âm e (hơi kéo dài âm ê): Chữ K thì cần âm a
* Sự khác nhau cơ bản giữa nguyên âm (= Vokale) và phụ âm (= Konsonanten): Bất cứ ngôn ngữ nào trong một từ phải có nguyên âm. Nếu không có nguyên âm thì chỉ là viết tắt thôi, không thể đọc được.
          Có nguyên âm: gehen, lieben, all…
          Không có nguyên âm: FDJ, LFT, DKNY…
Đối với tôi khó nhất là chữ J (Đọc như chữ „giốt“ trong tiếng Việt, chỉ hơi nhiều gió xì ra).
Cũng thuộc vào bảng chữ cái gồm thêm 3 nguyên âm bị biến đổi (= Umlauten) là:        
ä (Đọc: „a-ê“, mồm há ra, lưỡi đè xuống môi dưới)
ö (Đọc: „ô-ê“ như „bà Huê“)
ü (Đọc: „u-ê“ như „anh Uy“)
và dấu ngoại lệ: ß  (ess-zett). Dấu này thì không có viết hoa (viết to).
Nếu bàn phím không có chữ „ä“ thì có thể thay bằng „ae“ khi viết, chữ „ö“ thay bằng „oe“, chữ „ü“ thay bằng „ue“, chữ „ß“ thay bằng „ss“.
bügeln = buegeln; lächerlich = laecherlich; böse = boese…
          Fuß = Fuss
Chú ý:
1.  Về nguyên tắc khi đọc tiếng Đức người ta phải đọc tất cả các chữ, không bỏ sót một chữ nào kể cả những phụ âm „chết“.
Tiếng Việt không có những phụ âm chết này nên nhiều người hay bỏ qua chúng khi đọc tiếng Đức. Lối nói này gọi là „nói bồi“ .Đa số là của những người không được học tiếng Đức một cách bài bản, chủ yếu là nói cho người ta hiểu. Lâu ngày thành thói quen rất khó bỏ, thêm nữa khi viết chữ Đức sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Vì thế ngay từ đầu nên tìm cách đọc thật chính xác tất cả các chữ trong từ. Đến một lúc nào đó tự nhiên sẽ nhuần nhuyễn dễ nghe hơn nhiều.
Chữ „Z, z“ đọc là „zett“ hoặc chữ „j,J“ đọc là „jott“.
- Chữ „t“ đứng sau cùng chính là phụ âm chết, người ta không đọc là „zết-thê“ mà chỉ là „zết-thừ“. Chữ „t“ cuối cùng chỉ được xì gió ra từ miệng, không đọc rõ ràng.
- Nhưng nguyên âm khi đứng sau cùng vẫn được đọc rõ ràng ví dụ: chữ „g = gee“ đọc là „gê-ê“. Mặc dù sự chuyển tiếp giữa hai chữ „e“ này rất nhanh nhưng nếu nghe tinh vẫn nhận ra được.
2.  Một vấn đề dễ gặp nữa của người Việt khi đọc chữ Đức là sự phân biệt rõ ràng giữa chữ „l,L (ell)“ và chữ „n,N (en)
Khi đọc chữ „l“ và chữ „n“ vị trí của lưỡi đều nằm bên trên như nhau nhưng chữ „l“ thì lưỡi được thả lỏng, gió xì ra qua mũi và dưới lưỡi. Chữ „n“ thì lưỡi cứng hơn và gió xì ra đằng mũi.
3.  Tương tự như trong tiếng Việt, tiếng Đức cũng có một số chữ cái khi đi với nhau người ta đọc chúng bằng hợp âm mới:
          ch:     Đọc là „khờ“ tương tự như chữ „kh“ trong tiếng Việt
                    Ich (đọc là „i-khờ“); der Bach (đọc là „ba-khờ“);
          ei:      Đọc là „ai“ như chữ „ai“ trong tiếng Việt
                    das Ei (đọc là „ai“); bei (đọc là „bai“)
          e:       Nếu đứng ở giữa từ thì đọc là „ê“
                    den (đọc là „đên“)
          e:       Nếu đứng ở cuối từ thì đọc là „ơ“      
                    male (đọc là „ma-lơ”), gehe (đoc là “kê-hơ”)
          e:       Nhiều khi lại đọc là „e“ như trong tiếng Việt
                    Menschen (đọc là „men-sen“)
          sch:    đọc là „s“ và bị uốn lưỡi rất nặng
Trên đây chỉ là một vài kinh nghiệm đọc chữ Đức của tôi. Không thể liệt kê hết ra đây những kinh nghiệm đọc được vì cũng là một chữ nhưng khi nằm cạnh các chữ khác nhau cũng bị ảnh hưởng lẫn nhau và được đọc khác nhau. Tốt nhất là chịu khó nghe rồi tự góp nhặt kinh nghiệm cho mình.
Đọc tốt tiếng Đức cũng đồng nghĩa với hiểu tốt tiếng Đức. Cũng vì thế nên dành nhiều thời gian cho nó. Đây là một bước quyết định thành hay bại, vì thế không thể học qua loa được.
Ở phần tiếp theo „Viết và phát âm“ tôi sẽ đặt vài đường links dẫn đến một số trang Webs để bạn luyện tập đọc và nghe tiếng Đức.
Nếu chịu khó thì chỉ trong vòng hai tuần bạn đã có thể đọc chữ Đức tương đối tốt vì thực ra nó dễ hơn người ta tưởng nhiều. Mà đọc được chữ Đức có nghĩa là ta có thể học và sử dụng được bất cứ chữ nào bắt gặp. Như thế ta có thể nói là bạn đã biết tiếng Đức rồi, sẽ không còn gì có thể cản trở bạn được nữa và vấn đề chỉ còn là thời gian nữa mà thôi. Người Đức thì nói rằng „Das ist schon eine Halbmiete. = Cái đó đã là một nửa tiền nhà rồi.“…